Bản tin sinh hoạt chi đoàn tháng 10
Thứ sáu - 30/09/2022 15:15
TỈNH QUẢNG NAM
TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN
Tháng 10/2022
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Quảng
Nam lần thứ XIX thành công tốt đẹp
Sáng ngày 1.10, Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Quảng Nam lần thứ
XIX (nhiệm kỳ 2022 - 2027) diễn ra phiên trọng thể với sự tham dự của 250 đại biểu đại
diện cho hơn 71.000 đoàn viên thanh niên toàn tỉnh.
Bí thư Tỉnh ủy Phan Việt Cường phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh
Quảng Nam lần thứ XIX. Ảnh: H.Q
I. TIN TỨC, SỰ KIỆN
Đến dự có Bí thư Trung ương Đoàn Nguyễn Tường Lâm; Ủy viên Trung ương Đảng,
Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Phan Việt Cường; Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy,
Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lê Văn Dũng; Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh
Võ Xuân Ca; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hồ Quang Bửu cùng các đồng chí trong Ban Thường
vụ Tỉnh ủy, lãnh đạo các sở, ban ngành.
Nhiệm kỳ 2017 - 2022, công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trên địa bàn Quảng
Nam có nhiều chuyển biến tích cực. Trong đó, các phong trào hành động cách mạng tiếp tục
phát triển mạnh, thể hiện rõ nét vai trò xung kích, tình nguyện, sáng tạo của thanh niên trong
phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời tạo môi trường lành mạnh để rèn luyện đoàn viên thanh
niên.
Quang cảnh đại hội. Ảnh: H.Q
Các cấp bộ đoàn toàn tỉnh thực hiện hơn 260 công trình thanh niên; duy trì, quản lý
165 tuyến đường “Sáng - xanh - sạch - đẹp - văn minh - an toàn”; tổ chức đồng loạt gần
2.170 “Ngày Chủ nhật xanh” với sự tham gia của 10.000 lượt đoàn viên thanh niên; trồng
và chăm sóc hơn 420.000 cây xanh.
Trong thời điểm dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, tuổi trẻ toàn tỉnh đã thành lập 21
đội hình truy vết và lấy mẫu xét nghiệm, 210 đội hình thanh niên xung kích tham gia các
hoạt động phòng chống dịch Covid-19 với sự tham gia của hơn 10.000 lượt đoàn viên thanh
niên. Tổng nguồn lực thực hiện các hoạt động phòng chống dịch của tuổi trẻ Quảng Nam là
15 tỷ đồng.
Với những thành quả đạt được, Tỉnh đoàn Quảng Nam được Trung ương Đoàn khen
tặng danh hiệu “Đơn vị xuất sắc trong công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi” các năm
2017, 2019, 2020, 2021.
Đoàn viên thanh niên tỉnh Quảng Nam tham gia lấy mẫu xét nghiệm Covid-19 vào năm 2021. Ảnh: H.Q
Nhiệm kỳ 2022 - 2027, thực hiện khẩu hiệu hành động “Tuổi trẻ Quảng Nam tiên
phong - đoàn kết - sáng tạo - phát triển”, các cấp bộ đoàn toàn tỉnh sẽ định hướng, tư vấn
nghề nghiệp việc làm cho 75.000 lượt đoàn viên thanh niên; tăng dư nợ từ nguồn vốn ủy
thác của Ngân hàng Chính sách xã hội mỗi năm từ 20% trở lên; hỗ trợ triển khai 200 mô
hình “Vườn ươm thanh niên”, “Vườn cây sinh kế”; xây dựng ít nhất 300 mô hình hưởng
ứng phong trào chống rác thải nhựa; mỗi cơ sở đoàn đăng ký giúp đỡ 5 hộ gia đình thanh
niên nghèo thoát nghèo bền vững, hướng đến giảm 1.750 hộ thanh niên nghèo...
Đại hội bầu đoàn đại biểu dự Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII. Ảnh: H.Q
Phát biểu chỉ đạo tại đại hội, Bí thư Tỉnh ủy Phan Việt Cường nhiệt liệt biểu dương,
chúc mừng những thành tích quan trọng của các cấp bộ đoàn và cán bộ, đoàn viên, thanh
thiếu nhi trên địa bàn tỉnh đạt được trong nhiệm kỳ qua. Đồng thời yêu cầu các cấp bộ đoàn
tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn
với thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương trong lao động, công tác, học tập của
thế hệ trẻ; tăng cường giáo dục thế hệ trẻ lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa,
nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
Các chương trình, hoạt động của Đoàn cần bám sát chỉ đạo của Trung ương Đoàn và
các nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Các cấp bộ đoàn toàn tỉnh nghiên cứu giải pháp hiệu quả
trong việc đoàn kết, tập hợp thanh niên vào hoạt động của Đoàn; thường xuyên đổi mới nội
dung, bám sát tình hình thực tế và nhu cầu, khả năng của thanh niên. Quan tâm hơn nữa chất
lượng đội ngũ cán bộ đoàn; phát hiện, bồi dưỡng, giới thiệu những đoàn viên ưu tú, chất
lượng cho tổ chức đảng xem xét kết nạp.
Ban Chấp hành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Quảng Nam khóa XIX ra mắt đại hội. Ảnh: H.Q
Bí thư Tỉnh ủy Phan Việt Cường cũng đề nghị cấp ủy đảng, chính quyền các cấp tiếp
tục quan tâm, tin tưởng giao nhiệm vụ cho tuổi trẻ; thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giúp
đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đoàn viên, thanh thiếu nhi hăng hái, tự tin tham gia thực
hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Xây dựng kế hoạch cụ thể, thường xuyên
rà soát, bổ sung quy hoạch và quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, thử thách đoàn viên
thanh niên là đảng viên trẻ để đội ngũ này phát huy khả năng, được cống hiến và trưởng
thành.
Phát biểu chỉ đạo tại đại hội, đồng chí Nguyễn Tường Lâm, Bí thư T.Ư Đoàn, ghi nhận,
biểu dương và đánh giá cao những kết quả của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi
tỉnh Quảng Nam đã đạt được trong nhiệm kỳ qua, cũng như sự nghiêm túc, thẳng thắn, kiểm
điểm những mặt còn hạn chế trong công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi của tỉnh.
Đồng chí Bí thư TW Đoàn cho rằng mặc dù chúng ta rất vui mừng về những kết quả
tích cực đã đạt được trong nhiệm kỳ qua với 16/18 chỉ tiêu đạt và vượt, nhưng chúng ta cũng
không khỏi băn khoăn, trăn trở vì 2 chỉ tiêu chưa đạt là những chỉ tiêu quan trọng trong công
tác xây dựng Đoàn, tham gia xây dựng Đảng, đó là chỉ tiêu phát triển đoàn viên mới và giới
thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp.
Đồng chí Nguyễn Tường Lâm, Bí thư T.Ư Đoàn phát biểu chỉ đạo tại đại hội
MẠNH CƯỜNG
“Tại Đại hội này, tôi đề nghị các đồng chí cũng nhau thảo luận, phân tích kỹ lưỡng
nguyên nhân và xác lập các giải pháp để phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những
tồn tại, hạn chế trong nhiệm kỳ mới. Tiếp thu một cách nghiêm túc, đầy đủ những ý kiến chỉ
đạo sâu sắc”, Đồng chí Nguyễn Tường Lâm cho rằng, tình hình thanh niên trong giai đoạn
hiện nay và những năm qua tiếp theo có nhiều chuyển biến nhanh biến nhanh chóng. Muốn
tập hợp được thanh niên để giáo dục, định hướng họ, chúng đã cần không ngừng đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của Đoàn để ngày thị hiếu, tâm lý, nhu cầu thiết thân
của thanh niên. Từng đồng chí cán bộ đoàn phải tự làm mới mình trong tư duy và hành động.
Ngoài ra, cần kiên trì, sáng tạo trong thực hiện chức năng trường học xã hội chủ nghĩa
của thanh niên, các cấp bộ Đoàn tỉnh Quảng Nam cần đổi mới, nâng cao tính hiệu quả, thực
chất, tính giáo dục của các nội dung, hình thức học tập, gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, giải quyết những khâu yếu, việc khó.
Bí thư Trung ương Đoàn cũng lưu ý, Quảng Nam là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung, để tham gia thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ trị quan trọng đó, nhiệm kỳ tới,
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh động viên, khuyến khích lớp thanh niên tiên tiến, đi đầu trong
học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh và hội nhập. Phải có giải pháp tập hợp, phát huy khả
năng sáng tạo, trí tuệ của thanh niên tham gia thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội.
“Trong nhiệm kỳ này, chúng ta tiếp tục triển khai 3 phong trào hành động cách mạng,
3 chương trình đồng hành với thanh niên, nhưng nội dung phải suy nghĩ để tiếp cận bám sát
nhiệm vụ chính trị của tỉnh, cách làm phải được đổi mới, đặc biệt, cần phải tận dụng mạnh
mẽ chuyển đổi số trong các hoạt động nơi đoàn cư trú”, anh Lâm yêu cầu.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Quảng Nam khóa XIX
gồm 36 người. Đồng chíPhạm Thị Thanh tái đắc cử chức vụ Bí thư Tỉnh đoàn; Đồng
chí Hoàng Văn Thanh và đồng chí Đặng Thị Bảo Trinh tái đắc cử chức vụ Phó Bí thư Tỉnh
đoàn. Đại hội cũng bầu đoàn đại biểu dự Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII gồm 12 đại
biểu chính thức và 4 đại biểu dự khuyết.
Bí thư Tỉnh ủy Phan Việt Cường trao Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho các cá nhân có nhiều đóng
góp trong công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi nhiệm kỳ 2017 - 2022. Ảnh: H.Q
Dịp này, Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen các cá nhân có nhiều đóng góp quan trọng
trong công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi tỉnh Quảng Nam nhiệm kỳ 2017 - 2022.
Đồng chí Phạm Thị Thanh tái đắc cử Bí thư Tỉnh Đoàn Quảng
Nam
Tại Hội nghị Ban chấp hành Tỉnh Đoàn Quảng Nam lần thứ nhất khóa XIX nhiệm kỳ
2022 - 2027, đồng chí Phạm Thị Thanh tái đắc cử Bí thư Tỉnh Đoàn Quảng Nam.
Đại biểu bỏ phiếu bầu Ban chấp hành Tỉnh Đoàn Quảng Nam nhiệm kỳ 2022- 2027.
Chiều 30/9, Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX (nhiệm
kỳ 2022-2027) tiến hành bầu Ban Chấp hành Đoàn tỉnh lần thứ XIX (nhiệm kỳ 2022-2027)
gồm 36 đồng chí.
Đồng chí Phạm Thị Thanh tái đắc cử Bí thư Tỉnh Đoàn Quảng Nam nhiệm kỳ 2022- 2027.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Tỉnh Đoàn khóa XIX đã bầu Ban Thường vụ
gồm 7 đồng chí; chị Phạm Thị Thanh được bầu giữ chức vụ Bí thư Tỉnh đoàn; anh Hoàng
Văn Thanh, chị Đặng Thị Bảo Trinh được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Tỉnh đoàn Quảng
Nam nhiệm kỳ 2022 - 2027.
Đại hội bầu 36 đồng chí trong Ban chấp hành Tỉnh Đoàn khoá mới.
Đồng chí Hoàng Văn Thanh giữ chức Phó Bí thư Tỉnh Đoàn Quảng Nam
Đồng chí Đặng Thị Bảo Trinh được bầu là Phó Bí Thư Tỉnh Đoàn Quảng Nam.
Hội nghị bầu ra Ủy ban kiểm tra gồm 7 đồng chí. Trong đó, đồng chí Hoàng Văn Thanh
giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh đoàn.
Trước đó, tại phiên làm việc thứ 2 của Đại hội, tiến hành tổng kết Chương trình phối
hợp giữa UBND tỉnh và Tỉnh đoàn giai đoạn 2018 – 2022 và ký kết chương trình giai đoạn
2022 – 2027.
Ký kết quy chế phối hợp giữa UBND tỉnh và Tỉnh Đoàn Quảng Nam.
Dịp này, Tỉnh Đoàn phối hợp với Hội Doanh nhân trẻ tỉnh Quảng Nam trao 50 suất quà (2
triệu đồng/suất) cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em nhiễm chất độc da cam.
Nguồn: Trunguongdoan.vn
Sôi nổi Ngày thanh niên cùng hành động
Ngày 03.10, tại xã Bình Nam (Thăng Bình), Tỉnh đoàn - Hội LHTN Việt Nam tỉnh
Quảng Nam tổ chức Ngày thanh niên cùng hành động năm 2022 với chủ đề “Tuổi trẻ Quảng
Nam đoàn kết, sáng tạo chung tay xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh”, chào mừng
thành công Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên Cộng sản (TNCS) Hồ Chí Minh tỉnh Quảng
Nam lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2022 - 2027. Đồng chí Phạm Thị Thanh - Bí thư Tỉnh đoàn
tham dự chương trình.
Nhằm phát động thành phong trào thi đua lập thành tích chào mừng thành công Đại hội đại
biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX, hướng tới Đại hội Đoàn toàn
quốc lần thứ XII, nhiệm kỳ 2022 - 2027, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn đã triển khai tới các cấp
bộ đoàn trong toàn tỉnh đồng loạt tổ chức chương trình "Ngày thanh niên cùng hành động"
với nhiều hoạt động thiết thực, ý nghĩa.
Lễ phát động cấp tỉnh được tổ chức tại xã Bình Nam, huyện Thăng Bình. Tại các huyện, thị,
thành đoàn đoàn và đoàn trực thuộc, căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, chủ động lựa
chọn địa điểm, huy động đoàn viên, thanh niên tổ chức các hoạt động hưởng ứng.
Tại đây, các đoàn viên, thanh niên ra quân thi công công trình “Thắp sáng 1km đường quê”,
xây dựng khu vui chơi thiếu nhi tại thôn Vịnh Giang, xã Bình Nam; thực hiện "Đường hoa
thanh niên" tại xã Bình Quế; phát quang, dọn vệ sinh 700m đường giao thông nông thôn; tổ
chức chương trình “Đổi rác thải tái chế lấy dụng cụ học tập”.
Bên cạnh đó, Tỉnh đoàn - Hội LHTN Việt Nam tỉnh đã tổ chức khám, tư vấn sức khỏe, khám
chữa bệnh miễn phí cho 100 học sinh mắc Covid-19; trao tặng 10 suất quà cho học sinh có
hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn xã Bình Nam.
Các hoạt động triển khai Ngày Thanh niên cùng hành động tập trung đi vào các công trình,
phần việc cụ thể, thiết thực, hiệu quả đã thu hút đông đảo thanh thiếu nhi và người dân tham
gia; qua đó góp phần đẩy mạnh và nhân rộng các mô hình, các đội hình thanh niên tình
nguyện trong bảo vệ môi trường, xây dựng nông thôn mới, thiết thực lập thành tích chào
mừng thành công Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX,
nhiệm kỳ 2022 - 2027.
Học tập Bác điều quan trọng nhất là làm theo
gương Bác
Vẫn còn biết bao câu chuyện cảm động về Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Mỗi người
hãy xác định suốt đời học tập và làm theo gương Bác để không ngừng tiến bộ, tránh được
những khuyết điểm, sai lầm dù là nhỏ nhất.
Học tập Bác điều quan trọng nhất là làm theo gương Bác (Ảnh: Tư liệu).
Nhắc đến hai tiếng Bác Hồ, ai trong chúng ta cũng thấy thân thương, trìu mến. Sinh
thời, Người hằng quan tâm và dày công xây dựng Đảng thành một khối đoàn kết thống nhất,
vững mạnh và trong sạch. Người luôn chăm lo giáo dục, đào tạo, rèn luyện đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là thế hệ trẻ. Cả cuộc đời Người đã hy sinh
II. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO LỜI BÁC
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tương lai, vận mệnh của đất nước, vì ấm no, hạnh phúc
của nhân dân. Dù là lãnh tụ đứng đầu một đất nước nhưng Bác vẫn sống đạm bạc, giản dị,
luôn vì dân, vì nước, không một chút tư riêng. Điều đó đã tạo nên một tấm gương bình dị
mà cao quý, khiến mọi người muốn noi theo. Khi xuống cơ sở, đến với dân, Bác không bao
giờ báo trước, để không bố trí đón rước linh đình. Bác đến thẳng nơi ăn nơi ở, trong bếp
núc, nơi làm việc, nhà trẻ, chỗ vệ sinh, quan tâm thiết thực đến đời sống hằng ngày của mọi
người. Các buổi lễ lớn, Người thường xuất hiện ở phía sau hội trường, thường không chỉ
nghe báo cáo viết sẵn, trình bày một chiều mà bằng nhiều cách khác nhau. Người quan sát
thực tiễn, hiểu rõ những điều cơ bản nhất, chân thật nhất của tình hình rồi mới đọc và nghe
báo cáo. Bác tiết kiệm từng thứ nhỏ nhất trong nếp sống, công việc hằng ngày. Bác thường
xuyên nhắc nhở mọi người quý trọng sức lao động, sử dụng tiết kiệm từ những vật dụng bé
nhỏ như que diêm, sợi chỉ, mẩu bút chì… Bởi không chỉ vì nghèo mới tiết kiệm, mà tiết
kiệm là đức tính truyền thống của dân tộc ta.
Bước vào Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, mỗi
chúng ta đều thấy bản thân tiến bộ thêm, gắng sức sản xuất, công tác và làm việc tốt hơn để
góp phần nhỏ bé của mình vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền của địa phương nơi
mình cư trú, sống với nhau chân thành, học tập lẫn nhau, khắc phục những mặt còn yếu kém
trong cuộc sống thường nhật.
Nghiêm túc học tập theo tấm gương Bác là điều không dễ và làm theo Bác lại càng khó
hơn. Nhưng nếu có tấm lòng trong sáng và có sự quyết tâm thì ai ai cũng đều có thể học và
làm theo Bác. Cũng có người cho rằng bận công việc, ít có thời gian, điều kiện để làm được
như Bác. Nói như vậy là chưa đúng. Dù bận việc nước, việc dân, Bác vẫn có thời gian chăm
lo đến những việc nhỏ nhất, chan hòa tình thương đến mọi người, không sót một ai, từ cụ
già đến các cháu thiếu nhi… Mọi người đều có thể học tập và làm theo Bác từ những việc
hằng ngày, ở mọi lúc, mọi nơi, rất đỗi bình thường, giản dị. Chính sự bình thường giản dị
ấy càng tôn thêm tầm vĩ đại của Bác. Đợt sơ kết đánh giá của Ban chỉ đạo Cuộc vận động
TP. Hồ Chí Minh đã nhận định: “Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh” của Thành phố đã mang lại nhiều kết quả: nâng cao tinh thần
trách nhiệm trong công việc, thực hiện cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho nhân
dân, tăng cường các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tích cực tu dưỡng, rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống, ngăn chặn
các tệ nạn xã hội… Thông qua Cuộc vận động đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân xuất sắc,
điển hình trong lao động sản xuất và học tập… Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là việc gắn kết
giữa “học tập” và “làm theo” chưa được chặt chẽ, nhiều nơi chỉ chú trọng việc nghiên cứu,
học tập các chuyên đề của Cuộc vận động còn công việc triển khai làm theo tấm gương đạo
đức của Bác thì cấp ủy, người đứng đầu cơ quan chưa quan tâm đúng mức. Do đó chuyển
biến tuy có nhưng còn hạn chế: tập thể, cá nhân điển hình chưa nhiều, chưa sâu rộng trong
quần chúng. Vẫn còn cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật… Những
người đứng đầu cơ quan, đơn vị, thành viên ban chỉ đạo Cuộc vận động và các cấp ủy đảng
trước hết phải là tấm gương sáng trong học tập, rèn luyện làm theo Bác bằng những việc
làm thiết thực, cụ thể trong sinh hoạt, trong công việc, để các tầng lớp quần chúng noi theo.
Qua đó, kịp thời ngăn chặn những suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
cán bộ, đảng viên, coi đó là giải pháp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí
và thực hành tiết kiệm.
Công cuộc đổi mới của đất nước đã đi chặng đường trên 35 năm đã làm nên những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử mang về cho đất nước những mùa hoa thơm, trái ngọt,
đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, đã và đang đưa đất nước ra
khỏi tình trạng kém phát triển, vị thế uy tín của nước ta được nâng lên trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, nguy cơ và thách thức còn lớn, nguy cơ tham nhũng, quan liêu, nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả người đứng đầu thoái hóa về đạo
đức, lối sống, tư tưởng chính trị. Đất nước ta còn nghèo, rất cần phải tiết kiệm của cải vật
chất để kiến thiết, xây dựng đất nước. Kẻ thù của tiết kiệm là lãng phí. Trong khi nhân dân
đang nghiêm túc thực hành tiết kiệm chống lãng phí thời gian, tiền của thì hằng ngày vẫn
xảy ra hiện tượng tiêu cực, lãng phí. Không ít cán bộ, quan chức ở nước ta đang hình thành
thói quen “vung tay quá trán”, “xài tiền chùa”, biểu hiện rõ nhất là ở các dịp hội họp, đón
nhận danh hiệu thi đua, khánh thành, khai trương, động thổ... Đáng quan tâm là lớp trẻ chưa
có ý thức tiết kiệm. Việc giáo dục đức tính này cho lớp trẻ cần thực hiện kiên trì, thường
xuyên. Cha mẹ hãy nêu gương và khuyên răn con cái tiết kiệm trong cuộc sống hằng ngày.
Về phía nhà trường nên tăng cường bộ môn giáo dục công dân, trong đó coi trọng rèn rũa ý
thức cần kiệm đối với học sinh. Cơ quan, đơn vị khi tiếp nhận cán bộ trẻ nên kiểm tra sát
hạch về năng lực trình độ, đồng thời xem xét đến kiến thức thực hành tiết kiệm…
Hơn nửa thế kỷ qua, Di chúc của Người để lại, còn nhiều điều Người ủy thác, mong
muốn cho đất nước, nhân dân, chúng ta chưa làm được, chưa làm tròn. Bản Di chúc của
Người vẫn còn mang tính thời sự cho hôm nay. Để thực hiện trọn vẹn những điều mong
muốn của Bác Hồ. Thiết nghĩ: Các tổ chức đảng, đoàn thể và mỗi người phải thường xuyên
nêu cao tính tiên phong, gương mẫu, tăng cường xây dựng củng cố, chấp hành nghiêm các
nguyên tắc chế độ sinh hoạt của Đảng, mỗi người chúng ta nêu cao phẩm chất đạo đức cách
mạng thường xuyên học tập và làm theo tấm gương của Bác, trước mắt cũng như lâu dài,
bền chí vững tâm đinh ninh lời hứa với Bác, để xứng đáng với niềm tin cậy và “muôn vàn
tình thân yêu” của Bác Hồ.
Giờ đây, Bác đã đi xa, nhưng với dân tộc Việt Nam không lúc nào và không ở đâu
thiếu vắng hình ảnh Bác. Người để lại “muôn vàn tình thương yêu” cho toàn dân. Người
suốt đời “chỉ có ham muốn, ham muốn đến tột bậc là Tổ quốc ta được độc lập, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Chỉ bấy nhiêu điều, đơn giản vậy thôi, ba
chữ “độc lập - tự do - hạnh phúc” chứa đựng chung cả dân tộc và riêng cho mỗi người. Tuy
nhiên, nhiều điều trong Di chúc của Bác, chúng ta đã thực hiện được, song cũng có những
điều chúng ta chưa làm được, chưa phát triển được ngang tầm với yêu cầu của công cuộc
đổi mới đất nước, công cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đạo đức của người cán
bộ, đảng viên chưa làm được như căn dặn và mong muốn của Người.
Mỗi khi chúng ta nhớ đến Bác, mỗi người chúng ta nhớ về Người, hãy làm theo những
lời Người căn dặn trong Di chúc chính là chúng ta thực hiện học tập và làm theo tư tưởng,
phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện thi đua yêu nước một cách sinh động và hiệu
quả nhất. “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những
người yêu nước nhất”, “Mỗi người tốt, việc tốt là những bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một
rừng hoa đẹp”.
“Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn,
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn …”
(Tố Hữu)
Nguồn: xaydungdang.org.vn
Ngày 10/10: Kỷ niệm 68 năm ngày giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2022)
Ngày 14/10: Kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930-
14/10/2022)
Ngày 15/10: Kỷ niệm 66 năm Ngày truyền thống Hội LHTN Việt Nam (15/10/1956
-15/10/2022); Kỷ niệm 92 năm công tác Dân vận của Đảng (15/10/1930 -
15/10/2022)
Ngày 20/10: Kỷ niệm 92 năm Ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 - 20/10/2022)
III. THEO DÒNG LỊCH SỬ
* TUYÊN TRUYỀN MỘT SỐ NGÀY KỶ NIỆM TRONG THÁNG 10
1. Kỷ niệm 68 năm ngày giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2022)
68 năm về trước, ngày 10/10/1954, hàng vạn người dân Hà Nội vỡ òa trong niềm vui
đón đoàn quân chiến thắng trở về, giải phóng Thủ đô. Nhìn lại quá trình phát triển của Thành
phố từ mốc son rực rỡ này, càng thấy rõ điểm tựa để Hà Nội phát triển như hôm nay chính
là tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường không bao giờ lùi bước trước khó khăn của các thế
hệ cán bộ, nhân dân Thủ đô Hà Nội.
Chưa đầy 1 tháng sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, thực dân Pháp với
dã tâm cướp nước ta một lần nữa đã gây hấn và phát động chiến tranh ra cả nước. Đáp lời
kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ”, Hà Nội đã “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.
Sau cuộc trường chinh 9 năm cả nước kháng chiến gian khổ, nhưng vô cùng vinh
quang, Hà Nội đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu”; buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Geneve ngày 20/7/1954, công
nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
16h ngày 9/10/1954, những tên lính Pháp cuối cùng rút qua cầu Long Biên. Sáng
10/10/1954, Ủy ban Quân chính Thành phố và các đơn vị quân đội chia làm nhiều cánh quân
lớn ca khúc khải hoàn tiến vào trung tâm Hà Nội. Hàng vạn người dân Hà Nội trong niềm
vui sướng vỡ òa, đổ ra đường chào đón đoàn quân chiến thắng. Thăng Long - Hà Nội có
thêm một mốc son rạng rỡ trong lịch sử ngàn năm đầy tự hào.
Ngay trong những ngày đầu tiên trở về Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở
Đảng bộ và nhân dân Thủ đô: “Cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới nhìn vào Thủ đô ta. Tất
cả chúng ta phải ra sức giữ gìn trật tự an ninh, làm cho Thủ đô ta bình yên, tươi đẹp, mạnh
khỏe cả về vật chất và tinh thần”.
Thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch, 68 năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
Thủ đô đã ngày càng khẳng định vai trò, vị trí trung tâm, trái tim của cả nước.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hàng chục vạn người con Thủ đô
lên đường tòng quân chiến đấu khắp các chiến trường. Nơi hậu phương, Hà Nội trở thành
một trung tâm kinh tế lớn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chi viện cho tiền tuyến với phương
châm “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Không chỉ vậy, Hà Nội đã
cùng các quân, binh chủng và các địa phương, đặc biệt dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình
của Trung ương Đảng, làm nên một “Điện Biên Phủ trên không” mùa Đông năm 1972. “Thủ
đô của lương tri và phẩm giá con người” đã buộc Chính phủ Mỹ phải quay lại bàn đàm phán
và ký Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đây là tiền đề
quan trọng để cả nước làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975, thu non sông về một mối.
Vượt qua những khó khăn, gian khổ thời kỳ bao cấp, Hà Nội đã đi đầu nắm bắt và triển
khai quyết sách mới của Đảng, cùng cả nước tạo nên những thành tựu có ý nghĩa lịch sử
trong hơn 30 năm đổi mới.
Đặc biệt, ngày 1/8/2008 đánh dấu mốc son lịch sử mới, mở ra thời kỳ phát triển giàu
tiềm năng của Hà Nội. Thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH12 của Quốc hội khóa XII,
Thành phố chính thức hợp nhất với tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và 4 xã
thuộc huyện Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình).
Trong những năm qua, Thủ đô Hà Nội tiếp tục gương mẫu đi đầu trên mọi lĩnh vực,
đạt được những thành tựu nổi bật, góp phần to lớn vào sự phát triển chung của cả nước.
Kinh tế Thủ đô xứng đáng giữ vị trí đầu tàu và là động lực phát triển của Vùng Thủ đô,
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Nguồn: daidoanket.vn
2. Kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930-
14/10/2022)
Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và thanh niên cách mạng đồng chí
hội, cuối năm 1926 đầu năm 1927, một số địa phương hình thành “Nông Hội Đỏ” chỉ đạo
cuộc nổi dậy của nông dân đấu tranh chống thực dân, địa chủ phong kiến và tư sản, đòi
quyền dân sinh dân chủ; tiêu biểu là cuộc đấu tranh của nông dân Cao Lãnh, Sa Đéc, Gia
Định, Đức
Phổ, Duyên Hà, Tiền Hải…. đi tới đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta rất coi trọng việc giáo dục, tổ chức, động viên đưa quần
chúng ra đấu tranh chính trị và xây dựng đội quân chính trị quần chúng cách mạng. Tại kỳ
họp ban chấp hành Trung Ương Đảng lần I (khoá I) từ 14/10 đến cuối tháng 10 năm 1930,
“Nông hội đỏ” chính thức ra đời. Sự kiện thành lập Nông hôi đỏ đánh dấu sự trưởng thành
quan trọng về chất của giai cấp nông dân Việt Nam. Lần đầu tiên đưa gia cấp nông dân có.
đoàn thể cách mạng của mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Để phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, tổ chức Hội nông dân Việt Nam liên tục phát
triển dưới nhiều hình thức và tên gọi phù hợp: “Hội tương tê ái hữu”, “Hội nông dân phản
đế”, “Hội nông dân cứu quốc”, trở thành một thành viên chủ lực của mặt trận Việt Minh, là
lực lượng nòng cốt và đông đảo nhất tham gia khởi nghĩa tháng tám 1945.
Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tổ chức Hội được duy trì và liên tục
phát triển. Hội nông dân giải phóng Miền Nam được thành lập, là thành viên quan trọng của
mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, tham gia các phong trào cách mạng: đấu
tranh chính trị, quân sự, binh vận; xây dựng hậu phương chiến đấu tại chỗ…., góp phần làm
thất bại mọi âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ. Ở miền
Bắc, hội nông dân tập thể đã vận động nông dân đi theo con đường hợp tác hoá: vừa sản
xuất, vừa chiến đấu bảo vệ hậu phương, chi viện sức người sức của cho tiền tuyến lớn miền
Nam - thành đồng tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Chiến thắng mùa xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã
giành toàn thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, kết thúc 30 năm chiến tranh
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bước vào thời kỳ mới, nông dân 2 miền Nam
Bắc sát cánh cùng toàn dân đi tiếp con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
đã chọn; nhiệt tình tham gia xây dựng tổ chức của giai cấp nông dân - hội liên hiệp nông
dân tập thể Việt Nam từng bước lớn mạnh. Ngày 1/3/1988, hội liên hiệp nông dân tập thể
Việt Nam được đổi tên là hội nông dân Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần I hội nông dân Việt Nam họp từ ngày 28 đến ngày
29/3/1988 tại Hà Nội, là một cột móc quan trọng, một bước ngoặc có ý nghĩa lịch sử trong
sự phát triển của phong trào nông dân: Hội nông dân Việt Nam, một tổ chức chính trị - xã
hội rộng rãi của giai cấp nông dân được chính thức thành lập, có hệ thống từ Trung Ương
đến cơ sở; khẳng định những quan điểm cơ bản của Đảng ta về vai trò, vị trí của giai cấp
công nông dân và hội nông dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời đề ra những
mục tiêu, nội dung hoạt động của Hội, thực hiện đường lối mới của Đảng.
Nguồn: lichsuvietnam.vn
3. Kỷ niệm 66 năm Ngày truyền thống Hội LHTN Việt Nam (15/10/1956 -
15/10/2022)
Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng, phấn đấu trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng,
với vai trò nòng cốt chính trị của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên
(LHTN) Việt Nam ngày càng xứng đáng là tổ chức xã hội rộng rãi của thanh niên và các tổ
chức thanh niên Việt Nam yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh và lý tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đoàn kết mọi tầng lớp thanh niên Việt Nam trong và ngoài nước cùng phấn
đấu cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, vì hạnh phúc và sự tiến bộ của thanh niên.
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chủ trương phải hình thành một mặt trận thanh niên rộng rãi và thống nhất do Đoàn Thanh
niên Cứu quốc làm nòng cốt. Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị cho Tổng bộ Việt
Minh chuẩn bị hình thành mặt trận đoàn kết rộng rãi các tầng lớp thanh niên lấy tên là Đoàn
thanh niên Việt Nam. Tháng 6/1946, Tổng đoàn Thanh niên Việt Nam ra đời (gọi tắt là Đoàn
Thanh niên Việt Nam), sau đổi thành Liên đoàn Thanh niên Việt Nam - một tổ chức rộng rãi
của mọi thanh niên yêu nước tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Liên đoàn do Đoàn Thanh
niên Cứu quốc làm nòng cốt. Cuối năm 1946, Liên đoàn Thanh niên Việt Nam là thành viên
chính thức của Liên đoàn Thanh niên dân chủ thế giới.
* Giới thiệu chung
- Hội Liên hiệp Thanh niên (LHTN) Việt Nam là tổ chức xã hội rộng rãi của thanh niên
và các tổ chức thanh niên Việt Nam yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh và lý tưởng của
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội LHTN Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và
pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam.
- Hội LHTN Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Trải qua các thời kỳ hoạt động với những tên gọi khác nhau, Hội LHTN Việt Nam đã
xây dựng nên truyền thống vẻ vang: đoàn kết mọi tầng lớp thanh niên đóng góp xứng đáng
cho độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Bước vào thời kỳ mới, Hội LHTN Việt Nam tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước, lòng
tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, tài năng và sức trẻ của thanh niên, đoàn kết mọi thanh
niên Việt Nam trong và ngoài nước cùng phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh, vì hạnh phúc và sự tiến bộ của tuổi trẻ.
- Hội LHTN Việt Nam đoàn kết, hợp tác với thanh niên, các tổ chức thanh niên trong
khu vực và trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
* Tôn chỉ, mục đích của Hội
Hội LHTN Việt Nam có mục đích: Đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên
Việt Nam trong và ngoài nước cùng phấn đấu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
* Chức năng của Hội LHTN Việt Nam
- Tập hợp, đoàn kết, giáo dục mọi tầng lớp thanh niên Việt Nam. Hướng dẫn và tạo
điều kiện để hội viên hoàn thiện nhân cách, trở thành công dân tốt, cống hiến tài năng sức
trẻ vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đại diện, bảo vệ lợi ích hợp pháp của hội viên và tổ chức thành niên trước pháp luật
và công luận.
* Nhiệm vụ của Hội LHTN Việt Nam
- Đoàn kết, tập hợp các lực lượng thanh niên Việt Nam trong và ngoài nước cống hiến
tài năng, sức trẻ cho mục tiêu chung, khuyến khích hội viên và thanh niên tham gia tích cực
vào hoạt động ích nước, lợi nhà, hướng thiện.
- Tổ chức các hoạt động thiết thực, góp phần giải quyết và đáp ứng những nhu cầu
chính đáng của hội viên, thanh niên.
- Kêu gọi và kiến nghị kịp thời với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội cùng
chăm lo bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên và các tổ chức thành viên.
- Đoàn kết hợp tác với tổ chức thanh niên trong khu vực và trên thế giới vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội vì cuộc sống văn minh, hạnh phúc của tuổi trẻ.
- Thường xuyên chăm lo xây dựng Hội, mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên,
tích cực tham gia xây dựng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
* Cơ cấu tổ chức của Hội LHTN Việt Nam
a. Hệ thống Ủy ban Hội các cấp:
- Hội LHTN Việt Nam được thành lập:
+ Cấp Trung ương.
+ Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương
+ Cấp quận, huyện, thị xã thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
+ Cấp xã, phường, thị trấn và tương đương.
Hiện nay 63/63 tỉnh, thành phố đã có Ủy ban Hội và Hội LHTN Việt Nam Tập Đoàn
Sông Đà trực thuộc Trung ương Hội LHTN Việt Nam và có mạng lưới chi Hội, Câu lạc bộ,
Tổ, Đội, Nhóm thanh niên ở cơ sở.
b. Các tổ chức thành viên tập thể của Hội LHTN Việt Nam:
- Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
- Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam
- Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam
- Hội Trí thức Khoa học và Công nghệ trẻ Việt Nam
- Ban vận động thành lập Hội Thanh niên khuyết tật Việt Nam
- Ban vận động thành lập Hội Công nghệ và Tin học trẻ Việt Nam
- Ban vận động thành lập Hội Xây dựng trẻ Việt Nam
- Ban vận động thành lập Hội Tài chính Ngân hàng trẻ Việt Nam
c. Các đơn vị trực thuộc Hội LHTN Việt Nam:
- Trung tâm công tác xã hội thanh thiếu niên
- Trung tâm tư vấn tình yêu hôn nhân và gia đình
- Trung tâm giáo dục vị thành niên
- Trung tâm Dạy nghề thanh niên
- Báo thanh niên
- Hãng phim thanh niên
- Cổng tri thức Thánh Gióng (www.thanhgiong.vn)
CÁC MỐC SON LỊCH SỬ
Các kỳ Đại hội và Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam trong các nhiệm kỳ
* Tháng 6/1946, Tổng đoàn Thanh niên Việt Nam ra đời (gọi tắt là Đoàn Thanh niên
Việt Nam), sau đổi thành Liên đoàn Thanh niên Việt Nam - là tổ chức rộng rãi của mọi
thanh niên yêu nước tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Liên đoàn do Đoàn Thanh niên Cứu
quốc làm nòng cốt. Cuối năm 1946 Liên đoàn Thanh niên Việt Nam là thành viên chính
thức của Liên đoàn Thanh niên dân chủ thế giới.
* Tháng 02/1950, Liên đoàn thanh niên Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ I tại căn cứ
địa Việt Bắc trong khói lửa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đây là sự kiện
đánh dấu bước phát triển quan trọng trong công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên với vai trò
nòng cốt của Đoàn Thanh niên Cứu quốc. Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Chí Thanh (nguyên
là Uỷ viên Bộ Chính trị, Đại tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt
Nam) làm Chủ tịch Liên đoàn Thanh niên Việt Nam.
* Ngày 08/10/1956, Trung ương Liên đoàn Thanh niên Việt Nam và Ban vận động mặt
trận thống nhất thanh niên tổ chức Đại hội tại Nhà hát lớn – Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã
thống nhất các tổ chức thanh niên Việt Nam với tên gọi chung là Hội Liên hiệp Thanh niên
(LHTN) Việt Nam. Huấn thị tại Đại hội, Bác Hồ căn dặn: “Là người chủ tương lai, cho nên
toàn thể thanh niên ta phải đoàn kết chặt chẽ, phấn đấu anh dũng, vượt mọi khó khăn, thi
đua giúp sức vào sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh, để mình làm chủ mai sau”. Bác sỹ - Anh hùng lao động Phạm Ngọc
Thạch được bầu làm Chủ tịch Hội.
* Tháng 12/1961, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội LHTN Việt Nam lần thứ II được
tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Giáo sư Phạm Huy Thông được bầu làm Chủ tịch.
* Ngày 08/12/1994, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội LHTN Việt Nam lần thứ III được
tổ chức tại Thủ đô Hà Nội với 400 đại biểu chính thức. Đại hội đã thông qua Điều lệ mới,
hiệp thương chọn cử anh Hồ Đức Việt, Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư thứ
nhất Ban chấp hành Trung ương Đoàn làm Chủ tịch Hội và quyết định lấy ngày 15/10/1956
là ngày truyền thống hàng năm của Hội LHTN Việt Nam.
* Từ ngày 13-15/01/2000, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội LHTN Việt Nam lần thứ
IV đã được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội với 599 đại biểu. Đại hội hiệp thương chọn cử
chị Trương Thị Mai, Bí thư Trung ương Đoàn làm Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam.
- Tháng 02/2003, anh Hoàng Bình Quân, Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng,
Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn được bầu làm Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam thay chị
Trương Thị Mai nhận nhiệm vụ mới.
- Ngày 25-27/02/2005, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội LHTN Việt Nam lần thứ
V đã diễn ra trọng thể tại Thủ đô Hà Nội với 798 đại biểu. Bí thư Trung ương Đoàn Nông
Quốc Tuấn làm Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam.
- Tháng 02/2008, anh Võ Văn Thưởng, Uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành TƯ Đảng,
Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn đã được bầu làm Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam thay anh
Nông Quốc Tuấn nhận nhiệm vụ mới.
* Đại hội VI diễn ra trong 02 ngày 26-27/4/2010 tại Hà Nội với 995 đại biểu.
Anh Nguyễn Phước Lộc, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội LHTN Việt Nam khóa V
được hiệp thương chọn cử làm Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam khóa VI.
- Tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Hội LHTN Việt Nam lần thứ 7, khóa VI, anh Phan
Văn Mãi, Bí thư thường trực Ban chấp hành Trung ương Đoàn được hiệp thương chọn cử
làm Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam khóa VI thay anh Nguyễn Phước Lộc được điều động,
phân công nhận nhiệm vụ mới.
- Tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Hội LHTN Việt Nam lần thứ 10, khóa VI,
anh Nguyễn Đắc Vinh, Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư thứ
nhất Ban chấp hành Trung ương Đoàn được hiệp thương chọn cử làm Chủ tịch Hội LHTN
Việt Nam khóa VI thay anh Phan Văn Mãi được điều động, phân công nhận nhiệm vụ mới.
* Đại hội đại biểu toàn quốc Hội LHTN Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2014 - 2019
diễn ra từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 12 năm 2014 tại Thủ đô Hà Nội với 800 đại biểu
chính thức là những cán bộ Hội, hội viên xuất sắc và cá nhân tiêu biểu trong và ngoài nước,
đại diện cho khối đại đoàn kết các tầng lớp thanh niên của 54 dân tộc Việt Nam. Đại hội
đã hiệp thương chọn cử anh Nguyễn Phi Long, Bí thư BCH Trung ương Đoàn, Phó Chủ
tịch Thường trực Trung ương Hội LHTN Việt Nam khóa VI được hiệp thương chọn cử
giữ chức Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam khóa VII, nhiệm kỳ 2014 – 2019.
- Đại hội đại biểu Hội LHTN Việt Nam lần thứ VIII đã hiệp thương chọn cử anh
Nguyễn Anh Tuấn, Bí thư thường trực Trung ương Đoàn, giữ chức Chủ tịch Hội LHTN
Việt Nam khóa VIII, nhiệm kỳ 2019 - 2024.
- Tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Hội LHTN Việt Nam lần thứ 5, khóa VIII, anh
Nguyễn Ngọc Lương, Bí thư Trung ương Đoàn, Chủ tịch Hội đồng Đội Trung ương được
hiệp thương chọn cử giữ chức Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam khóa VIII,
nhiệm kỳ 2019 – 2024 thay anh Nguyễn Anh Tuấn được điều động, phân công nhận nhiệm
vụ mới.
4. Kỷ niệm 92 năm công tác Dân vận của Đảng (15/10/1930 - 15/10/2022)
* Sự ra đời và ý nghĩa của ngày 15/10
- Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, từ ngày 14 đến ngày 31-10/1930,
tại Hương Cảng, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất đã thông qua Luận cương Chính trị,
Điều lệ Đảng và các Án nghị quyết về: Công nhân vận động, Nông dân vận động, Cộng sản
Thanh niên vận động, Phụ nữ vận động, Quân đội vận, Vấn đề cứu tế và Hội phản đế đồng
minh. Trong Nghị quyết của Trung ương chỉ rõ: "Trong các Đảng bộ, (từ Thành ủy và Tỉnh
ủy) phải tổ chức ra các Ban chuyên môn về giới vận động". Từ tháng 10/1930, hệ thống Ban
chuyên môn về các giới vận động của Đảng bao gồm: công vận, nông vận, thanh vận, phụ
vận, quân đội vận, Mặt trận phản đế được ra đời làm nhiệm vụ tổ chức, tập hợp lực lượng,
giáo dục, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào cách mạng dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết bài báo “Dân vận” đăng trên Báo Sự thật số ra ngày 15/10/1949. Nội dung bài
báo được coi là “Cương lĩnh công tác dân vận” của Đảng. Chính vì vậy, vào tháng 10/1999,
nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo “Dân vận” và trên cơ sở sự
ra đời của hệ thống Ban chuyên môn về các giới vận động của Đảng, theo đề nghị của Ban
Dân vận Trung ương, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã đồng ý
lấy ngày 15/10/1930 là ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng và quyết định lấy
ngày 15/10 hằng năm là “Ngày Dân vận của cả nước” để cùng nhau học tập và thực hiện
những lời Bác Hồ dạy về công tác dân vận.
- Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng gắn bó máu thịt với nhân
dân đã trở thành một truyền thống tốt đẹp và là nguồn sức mạnh của Đảng ta từ ngày thành
lập đến nay. Đảng ta luôn xác định: Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa
chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm
cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong điều kiện hội nhập quốc
tế càng đòi hỏi phải phát huy cao độ khối đoàn kết và sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp với
sức mạnh của thời đại, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện thành công
công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
* Những chặng đường lịch sử công tác dân vận của Đảng
- Công tác dân vận trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945):
Ngay sau khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam nhanh chóng tổ chức ra các đoàn thể
cách mạng, hình thành bộ máy và cán bộ làm công tác dân vận. Xuất phát từ tình hình thực
tế của nước ta lúc bấy giờ là nước thuộc địa nửa phong kiến, lại là nước nông nghiệp lạc
hậu, để thực hiện mục tiêu cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng đã tổ chức cho các đảng viên
đi vào các giai cấp, tầng lớp nhân dân, tuyên truyền vận động, tổ chức và tập hợp quần chúng
nhân dân, huấn luyện họ đấu tranh chống áp bức, bất công, bóc lột đòi dân sinh, dân chủ ở
khắp mọi nơi. Những cán bộ, đảng viên lớp đầu tiên của Đảng đã không quản gian lao, thực
hiện chủ trương "vô sản hóa", tiến hành "ba cùng" với dân, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân
lao động và thành lập các tổ chức quần chúng đoàn kết xung quanh Đảng, tạo sức mạnh và
động lực cho cách mạng theo tư tưởng của Bác Hồ: "Đem sức ta mà giải phóng cho ta. Sau
cao trào cách mạng (1930-1931), đến thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939),
phong trào Phản đế (1939-1941) và phong trào Mặt trận Việt Minh (1941-1945), Đảng ta
chủ chương mở rộng chính sách đại đoàn kết toàn dân và công tác Mặt trận. Quần chúng
được tập hợp qua các hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp. Đảng đã tập
hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, bao gồm nhân sĩ, trí thức, tư sản dân tộc và cả ngoại
kiều… đây thực sự là bước phát triển mới trong việc xây dựng lực lượng chính trị quần
chúng.
Đứng trước tình hình thế giới và trong nước có những biến động lớn, Đảng ta đề ra chủ
trương phát động cao trào quần chúng chống Nhật - Pháp, gấp rút tiến hành tổng khởi nghĩa
giành chính quyền; với khí thế của cả dân tộc bằng bạo lực chính trị, kết hợp với lực lượng
vũ trang toàn dân đã đứng lên làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên Nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 2/9/1945. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã chứng
minh đường lối cách mạng của Đảng là đúng đắn; đó cũng là thắng lợi của nghệ thuật vận
động quần chúng; Đảng biết dựa vào dân, tin ở dân, gắn bó với dân, tuyên truyền giác ngộ
nhân dân, tổ chức tập hợp và hướng dẫn quần chúng nhân dân đấu tranh giành chính quyền.
- Công tác dân vận trong 2 cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc
(1945 - 1975):
Trong suốt 30 năm liên tục (1945-1975) của hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc
và bảo vệ Tổ quốc với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, bằng niềm tin và sức
mạnh toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác dân vận đã góp phần tuyên truyền,
vận động, tổ chức những phong trào cách mạng rộng lớn, động viên sức người, sức của, huy
động được sức mạnh của toàn dân tộc, nhân dân ta viết nên những trang sử hào hùng.
Trong những năm kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng ta đã tổ chức, rèn luyện và hình thành một
đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận luôn gắn bó máu thịt với nhân dân ở khắp mọi miền
của đất nước. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã chịu đựng hy sinh gian khổ, kiên cường bám dân để
thực hiện xuất sắc nhiệm vụ Đảng giao cho. Nhân dân tin tưởng và che chở cho cán bộ khi
bị địch truy lùng, chăm sóc chạy chữa khi đau yếu, móc nối khi mất liên lạc và đùm bọc,
chia ngọt sẻ bùi như con em trong gia đình. Trong những năm tháng đó, theo tiếng gọi thiêng
liêng của Tổ quốc, các phong trào "Ba sẵn sàng", "Ba đảm đang", "Năm xung phong"... đã
rầm rộ phát triển, tạo nên bầu nhiệt huyết cách mạng sôi động trong nhân dân cả nước, tất
cả vì sự nghiệp độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Công tác dân vận đã góp phần củng
cố niềm tin tuyệt đối của nhân dân đối với Đảng, Bác Hồ với tấm lòng son sắt và thủy chung,
không gì lay chuyển được.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là thắng lợi của
đường lối mở rộng đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Đó là sự
thành công của việc xây dựng lực lượng chính trị ngày càng rộng rãi trong mặt trận và các
đoàn thể, trong lực lượng vũ trang theo tư tưởng Hồ Chí Minh; “Vận động tất cả lực lượng
của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân...";
phát huy tới mức cao nhất về lực lượng, trí tuệ và của cải tạo thành sức mạnh tổng hợp để
hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
- Công tác dân vận trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN:
Khi cả nước bước vào thời kỳ mới, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng trước
những thuận lợi và khó khăn mới, Đảng ta động viên nhân dân cả nước nhanh chóng khắc
phục hậu quả chiến tranh, tiến hành công cuộc đổi mới, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, công tác dân vận đã
hướng vào vận động các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống
chính trị, đã đóng góp quan trọng vào các thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất nước
trên tất cả các lĩnh vực.
Trong giai đoạn này, công tác dân vận của Đảng càng được khẳng định rõ nét cả về lý
luận và thực tiễn. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng đã quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”;
phải đặc biệt chăm lo củng cố mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân. Nghị quyết 08B của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Đây là sự tổng kết có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc về công tác vận động quần chúng của Đảng. Nghị quyết 08B nêu lên 4 quan
điểm chỉ đạo công tác quần chúng của Đảng, đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự, bốn quan
điểm này còn mang tính chiến lược đối với công tác dân vận của Đảng trong những giai
đoạn tiếp theo của cách mạng, đó là: (1) Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân;
(2) Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và
kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân; (3) Các hình thức
tập hợp nhân dân phải đa dạng; (4) Công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước
và các đoàn thể nhân dân.
Tại Đại hội VII, Đảng ta xác định phải xây dựng cơ chế để thực hiện phương châm
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, ngày 18/02/1998,
Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở. Sau đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PLUBTVQH11 về thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Chính phủ ra các nghị
định thực hiện Quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở. Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ
thị số 18/2000/CT-TTg về tăng cường công tác dân vận trong các cơ quan nhà nước...
Đứng trước yêu cầu nhiệm vụ công tác vận động quần chúng trong thời kỳ đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá IX) đã ban hành các nghị quyết về: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, vì dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; “về Công tác dân
tộc”; về “Công tác tôn giáo”. Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX đã cụ thể hoá một bước
quan điểm, tư tưởng Đại hội IX của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
với nội dung và chất lượng mới, chỉ đạo công tác vận động quần chúng trong thời kỳ mới.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã xác định quan điểm về phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc: “Đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Đại đoàn kết
là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức
Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức; trong đó các chủ trương của Đảng
và chính sách pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu”.
Bộ Chính trị khóa X đã ra Quyết định số 290-QĐ/TW, ngày 25/02/2010 về việc ban
hành "Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị" một lần nữa khẳng định: “Dân vận
và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng
nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân”; đồng thời, xác định rõ trách
nhiệm lãnh đạo và thực hiện công tác dân vận của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của mọi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên; cơ chế
phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong thực hiện công tác dân vận. Có thể nói, đây là văn
bản đầu tiên của Đảng có tính chế định về chế độ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện
công tác dân vận trong hệ thống chính trị nước ta.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày
03/6/2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong
tình hình mới” xác định mục tiêu: Củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân với Đảng; tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập
hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nội dung Nghị quyết là những nhận thức mới về công tác dân vận và các nhiệm vụ,
giải pháp đặt ra có tính chất đột phá, khả thi trong tổ chức thực hiện, trong đó nhấn mạnh:
Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng,
Nhà nước trong sạch, vững mạnh và phân vai, gắn trách nhiệm rất rõ: Đảng lãnh đạo, chính
quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt trong thực hiện công
tác dân vận.
Sau đó, ngày 12/12/2013, Bộ Chính trị ban hành 2 quyết định quan trọng: Quyết định
số 217-QĐ/TW về việc ban hành "Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội"; Quyết định số 218-QĐ/TW về ban hành
"Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân
tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền" là bước đột phá mới về phát huy
dân chủ nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của chính quyền, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững
mạnh.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công
tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”. Cụ thể hóa Nghị quyết
XII của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác
dân vận và liên quan đến công tác dân vận, điển hình là: Ban Bí thư ban hành Kết luận số
43-KL/TW, ngày 07/01/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW khóa XI về
“Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình
mới”, Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 20/10/2015 về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận
của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”; Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 16/5/2016 của
Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận trong cơ quan hành
chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình mới”…
Trong giai đoạn này, công tác dân vận tiếp tục được đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả, đi vào chiều sâu, chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tăng
cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng - Nhà nước với nhân dân, tập trung vào các
nhiệm vụ, giải pháp: Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác dân
vận của các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị, nhất là của các cấp ủy đảng, chính
quyền và người đứng đầu các cấp; Tăng cường thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng
liên quan đến công tác dân vận, cuộc sống của nhân dân; tăng cường công tác dân vận của
các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, nhất là trong giải quyết các vấn đề liên quan
đến người dân; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội theo hướng thiết thực, cụ thể, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
chú trọng công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Đẩy mạnh các phong trào thi
đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, trong đó có phong trào thi đua “Dân vận khéo”;
Phát huy dân chủ, nhất là vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong
sạch, vững mạnh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Nguồn: danvan.vn
5. Kỷ niệm 92 năm Ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 - 20/10/2022)
Phụ nữ Việt Nam vốn sinh ra trong một đất nước với nền văn minh nông nghiệp, dựa
trên nền tảng nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp nên phụ nữ Việt Nam đã trở thành lực
lượng lao động chính.
Bên cạnh đó, nước ta luôn luôn bị kẻ thù xâm lược, đời sống nghèo khổ. Từ thực tế đó
mà người phụ nữ Việt Nam có bản sắc phong cách riêng.
Họ là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường dũng cảm, là người lao động cần
cù, sáng tạo, thông minh, là người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát
triển bản sắc và tinh hoa văn hoá dân tộc.
Ngoài ra, họ còn là những người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu đã sản sinh ra những
thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng.
Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ Việt Nam là lớp người bị áp bức, bóc lột,
chịu nhiều bất công nhất nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi theo cách
mạng.
Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ Việt Nam đã tham gia đông đảo vào
phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, còn có nhiều phụ nữ nổi tiếng
tham gia vào các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam như: Hoàng Thị Ái, Thái
Thị Bôi, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Minh Khai.
Từ năm 1927 những tổ chức quần chúng bắt đầu hình thành và thu hút đông đảo tầng
lớp phụ nữ Việt Nam như: Công Hội Đỏ, Nông Hội Đỏ, các nhóm tương tế, tổ học nghề và
các tổ chức có tính chất riêng của giới nữ.
Năm 1927 nhóm các chị Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh Lãng, Nguyễn Thị Thủy
là ba chị em ở làng Phật Tích (Bắc Ninh) tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội,
các chị tuyên truyền, xây dựng tổ học nghề đăng ten và học chữ.
Nhóm chị Thái Thị Bôi có các chị Lê Trung Lương, Nguyễn Thị Hồng, Huỳnh Thuyên
tham gia sinh hoạt ở trường nữ học Đồng Khánh.
Năm 1928, nhóm chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị An
tham gia sinh hoạt hội đỏ của Tân Việt. Nhóm này liên hệ với chị Xân, chị Thiu, chị Nhuận,
chị Liên thành lập tờ Phụ nữ Giải phóng ở Vinh.
Năm 1930, trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, ở Nghệ An, Hà Tĩnh có 12.946 chị
tham gia phụ nữ giải phóng, cùng nhân dân đấu tranh thành lập chính quyền Xô Viết ở trên
300 xã.
Ngày 1/5/1930, chị Nguyễn Thị Thập đã tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh của hơn
4.000 nông dân ở hai huyện Châu Thành, Mỹ Tho, trong đó có hàng ngàn phụ nữ tham gia.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
đã ghi: "Nam nữ bình quyền". Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ Việt Nam là lực lượng quan trọng
của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng phải giải phóng phụ nữ, gắn liền giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ.
Đảng đặt ra mục tiêu, phụ nữ Việt Nam phải tham gia các đoàn thể cách mạng (công
hội, nông hội) và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham
gia cách mạng.
Chính vì vậy mà ngày 20/10/1930, Hội Liên hiệp Phụ nữ chính thức được thành lập.
Sự kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng đối với vai trò của phụ nữ trong
cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20 tháng 10 hằng năm làm ngày
truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây là ngày kỉ niệm và tôn vinh phụ nữ
Việt Nam, lấy tên là "Ngày Phụ nữ Việt Nam".
Vào ngày 20 tháng 10 năm 1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam (nay đổi tên là Hội
Phụ nữ Việt Nam) chính thức được thành lập, để đánh dấu sự kiện này.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20 tháng 10 hằng năm làm ngày
truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây là ngày kỉ niệm và tôn vinh phụ nữ
Việt Nam, lấy tên là "Ngày Phụ nữ Việt Nam".
Nguồn: vtc.vn
1.Quy định mới về thủ tục thực hiện biện pháp yêu cầu xóa bỏ thông tin trên mạng
có nội dung làm nhục, vu khống, bịa đặt, sai sự thật
Nghị định số 53/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2022. Nghị định quy định trình tự, thủ tục thực hiện biện
pháp yêu cầu xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật trên không gian mạng
xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân.
Cụ thể, trường hợp áp dụng biện pháp xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự
thật, gồm:
IV. VĂN BẢN, CHÍNH SÁCH MỚI
+ Khi thông tin trên không gian mạng được cơ quan có thẩm quyền xác định là có nội dung
xâm phạm an ninh quốc gia, tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng theo quy định của
pháp luật.
+ Khi có căn cứ pháp luật xác định thông tin trên không gian mạng có nội dung làm nhục,
vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; bịa đặt, sai sự thật gây hoang mang trong nhân
dân, gây thiệt hại nghiêm trọng cho hoạt động kinh tế - xã hội đến mức phải yêu cầu xóa bỏ
thông tin.
+ Các thông tin trên không gian mạng khác có nội dung được quy định tại điểm c, điểm đ,
điểm e khoản 1 Điều 8 Luật An ninh mạng theo quy định của pháp luật, gồm:
(c) Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc.
đ) Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội
ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
e) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.
2. Từ 1/10, trường hợp nào bị yêu cầu ngừng hoạt động hệ thống thông tin, thu
hồi tên miền?
Có hiệu lực từ ngày 1/10/2022, Nghị định số 53/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định
trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc yêu cầu ngừng hoạt động
của hệ thống thông tin, thu hồi tên miền.
Theo đó, 2 trường hợp áp dụng gồm:
1- Có tài liệu chứng minh hoạt động của hệ thống thông tin là vi phạm pháp luật về an
ninh quốc gia, an ninh mạng.
2- Hệ thống thông tin đang được sử dụng vào mục đích xâm phạm an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội.
3. Xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
Nghị định số 55/2022/NĐ-CP ngày 23/8/2022 của Chính phủ quy định Cơ sở dữ liệu
quốc gia về công tác tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh có hiệu lực từ ngày 10/10/2022.
Theo Nghị định, Cơ sở dữ liệu quốc gia về công tác tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh (Cơ sở dữ liệu) là tập hợp thông tin về việc khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh của cơ quan, tổ chức, cá nhân và thông tin, dữ liệu về công tác
tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý kiến nghị, phản ánh của cơ
quan có thẩm quyền được chuẩn hóa, số hóa, lưu trữ, quản lý bằng cơ sở hạ tầng thông tin
theo quy định của Nghị định này và pháp luật khác có liên quan.
Cơ sở dữ liệu được xây dựng, quản lý tập trung tại Thanh tra Chính phủ và được tổ
chức cập nhật, khai thác tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban
nhân dân các cấp nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước về tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
4. Từ 1/10, Bộ Giao thông vận tải giảm 4 đầu mối
Từ 1/10, cơ cấu tổ chức của Bộ Giao thông vận tải tại Nghị định số 56/2022/NĐ-
CP giảm 4 đầu mối trực thuộc Bộ so với quy định tại Nghị định số 12/2017/NĐ-CP (từ 27
đầu mối xuống còn 23 đầu mối). Trong đó:
+ Hợp nhất Vụ Khoa học - Công nghệ với Vụ Môi trường thành Vụ Khoa học – Công
nghệ và Môi trường.
+ Tổ chức lại 3 Vụ: Kết cấu hạ tầng giao thông, Vận tải, An toàn giao thông thành 2
Vụ, theo đó giải thể Vụ An toàn giao thông.
+ Sáp nhập Vụ Đối tác công - tư vào Vụ Kế hoạch - Đầu tư.
+ Tổ chức lại Tổng cục Đường bộ Việt Nam thành Cục Đường bộ Việt Nam và Cục
Đường cao tốc Việt Nam.
5. Miễn phí cấp và sử dụng tài khoản định danh điện tử
Theo Nghị định số 59/2022/NĐ-CP ngày 5/9/2022 của Chính phủ quy định về định
danh và xác thực điện tử có hiệu lực từ ngày 20/10/2022, chủ thể danh tính điện tử là cơ
quan, tổ chức, công dân Việt Nam không phải thanh toán chi phí đăng ký cấp tài khoản định
danh điện tử và chi phí sử dụng tài khoản định danh điện tử do hệ thống định danh và xác
thực điện tử tạo lập.
6. Cơ cấu tổ chức mới của Ủy ban Dân tộc
Theo Nghị định 66/2022/NĐ-CP ban hành ngày 20/9/2022 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc có hiệu lực từ ngày
1/10/2022, cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc gồm: 1- Vụ Kế hoạch - Tài chính; 2- Vụ Tổ
chức cán bộ; 3- Vụ Pháp chế; 4- Vụ Hợp tác quốc tế; 5- Vụ Tổng hợp; 6- Vụ Chính sách
dân tộc; 7- Vụ Tuyên truyền; 8- Vụ Dân tộc thiểu số; 9- Vụ Công tác dân tộc địa phương;
10- Thanh tra; 11- Văn phòng; 12- Học viện Dân tộc; 13- Trung tâm Chuyển đổi số; 14-
Báo Dân tộc và Phát triển; 15- Tạp chí Dân tộc; 16- Nhà khách Dân tộc.
Các đơn vị quy định từ (1) đến (11) nêu trên là các đơn vị giúp Bộ trưởng, Chủ nhiệm
Ủy ban Dân tộc thực hiện chức năng quản lý nhà nước; các đơn vị quy định từ (12) đến (16)
là đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ chức năng quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc.
7. Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động kinh doanh
lĩnh vực hàng hải
Nghị định số 69/2022/NĐ-CP ngày 23/9/2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của các Nghị định quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực hàng
hải có hiệu lực từ ngày 30/10/2022.
Nghị định sửa đổi một số thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực hàng hải gồm:
- Thủ tục giao tuyến dẫn tàu (Điều 19 Nghị định số 70/2017/NĐ-CP);
- Cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh khai thác cảng biển (Điều 10 Nghị
định số 37/2017/NĐ-CP);
- Cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh khai thác cảng biển (Điều 11 Nghị
định số 37/2017/NĐ-CP);…
8. Xếp lương với các ngạch công chức ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn
Từ 6/10/2022, các ngạch công chức chuyên ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn
sẽ được xếp lương theo quy định tại Thông tư số 08/2022/TT-BNNPTNT.
Cụ thể, ngạch kiểm lâm viên chính, kiểm ngư viên chính, thuyền viên kiểm ngư
chính được áp dụng hệ số lương công chức loại A2, nhóm A2.1, từ hệ số lương 4,40 đến hệ
số lương 6,78.
Ngạch kiểm dịch viên chính động vật, kiểm dịch viên chính thực vật, kiểm soát viên
chính đê điều được áp dụng hệ số lương công chức loại A2, nhóm A2.2, từ hệ số lương 4,00
đến hệ số lương 6,38.
Ngạch kiểm dịch viên động vật, kiểm dịch viên thực vật, kiểm soát viên đê điều, kiểm
lâm viên, kiểm ngư viên, thuyền viên kiểm ngư được áp dụng hệ số lương công chức loại
A1, từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98.
Ngạch kỹ thuật viên kiểm dịch động vật, kỹ thuật viên kiểm dịch thực vật, kiểm soát
viên trung cấp đê điều, kiểm lâm viên trung cấp, kiểm ngư viên trung cấp, thuyền viên kiểm
ngư trung cấp được áp dụng hệ số lương công chức loại B, từ hệ số lương 1,86 đến hệ số
lương 4,06.
9. Cách xếp lương viên chức ngành thông tin và truyền thông
Từ ngày 10/10/2022, Thông tư số 13/2022/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền
thông chính thức có hiệu lực sẽ áp dụng cách xếp lương của viên chức biên tập viên, phóng
viên, biên dịch viên, đạo diễn truyền hình thuộc chuyên ngành thông tin và truyền thông.
Cụ thể, chức danh nghề nghiệp biên tập viên hạng I, phóng viên hạng I, biên dịch viên
hạng I, đạo diễn truyền hình hạng I được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A3, nhóm
1 (A3.1) từ hệ số lương 6,20 đến hệ số lương 8,00.
Chức danh nghề nghiệp biên tập viên hạng II, phóng viên hạng II, biên dịch viên hạng
II, đạo diễn truyền hình hạng II được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2, nhóm 1
(A2.1) từ hệ số lương 4,40 đến hệ số lương 6,78.
Chức danh nghề nghiệp biên tập viên hạng III, phóng viên hạng III, biên dịch viên hạng
III, đạo diễn truyền hình hạng III được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A1 từ hệ số
lương 2,34 đến hệ số lương 4,98.
10. Xếp lương viên chức chuyên ngành lưu trữ
Thông tư số 07/2022/TT-BNV của Bộ Nội vụ quy định xếp lương viên chức chuyên
ngành lưu trữ có hiệu lực từ ngày 15/10/2022.
Trong đó, trường hợp bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp Lưu trữ viên trung cấp:
Viên chức được bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp Lưu trữ viên trung cấp, mã số
V.01.02.03 có trình độ đào tạo trung cấp được xếp bậc 1, hệ số lương 1,86 (Viên chức
loại B).
Viên chức được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp Lưu trữ viên trung cấp, mã số
V.01.02.03 có trình độ đào tạo cao đẳng trở lên được xếp bậc 2, hệ số lương 2,06 (Viên chức
loại B).
Trường hợp bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp Lưu trữ viên:
Viên chức được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp Lưu trữ viên, mã số V.01.02.02
có trình độ đào tạo đại học được xếp bậc 1, hệ số lương 2,34 (Viên chức loại A1).
Viên chức được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp Lưu trữ viên, mã số V.01.02.02
có trình độ đào tạo thạc sỹ được xếp bậc 2, hệ số lương 2,67 (Viên chức loại A1).
Viên chức được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp Lưu tữ viên, mã số V.01.02.02
có trình độ đào tạo tiến sĩ được xếp bậc 3, hệ số lương 3,00 (Viên chức loại A1).
11. Từ 8/10, điều chỉnh giá dịch vụ đăng kiểm ô tô
Có hiệu lực từ ngày 8/10/2022, Thông tư số 55/2022/TT-BTC của Bộ Tài chính sửa
đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 238/2016/TT-BTC quy định về giá dịch vụ kiểm
định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới, thiết bị và xe máy chuyên
dùng đang lưu hành; đánh giá, hiệu chuẩn thiết bị kiểm tra xe cơ giới.
Thông tư 55 quy định biểu giá dịch vụ đăng kiểm xe ô tô các loại được điều chỉnh tăng
10.000 đồng/xe so với hiện nay.
Cụ thể, xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở cho phép tham gia giao thông trên
20 tấn, xe ô tô đầu kéo có khối lượng kéo theo cho phép tham gia giao thông trên 20 tấn và
các loại xe ô tô chuyên dùng: Mức giá tăng từ 560.000 đồng/xe lên 570.000 đồng/xe.
Máy kéo, xe chở hàng bốn bánh có gắn động cơ, xe chở người bốn bánh có gắn động
cơ và các loại phương tiện vận chuyển tương tự; rơ moóc, sơ mi rơ moóc: tăng từ 180.000
đồng/xe lên 190.000 đồng/xe.
Xe ô tô chở người trên 40 ghế (kể cả lái xe), xe buýt: tăng từ 350.000 đồng/xe lên
360.000 đồng/xe…
Xe ô tô chở người từ 10 ghế đến 24 ghế (kể cả lái xe), mức giá sẽ là 290.000 đồng/xe
thay cho mức 280.000 đồng/xe hiện nay.
Xe ô tô chở người dưới 10 chỗ ngồi, xe ô tô cứu thương, mức giá sẽ là 250.000 đồng/xe
thay cho mức 240.000 đồng/xe hiện nay.
12. Từ 1/10, giảm 20-50% một số loại phí kinh doanh vận tải
Theo Thông tư số 59/2022/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định mức thu một số khoản
phí, lệ phí, trong đó, giảm từ 20 - 50% một số loại phí hoạt động kinh doanh vận tải từ ngày
01/10 đến hết ngày 31/12/2022:
+ Giảm 20% phí trọng tải tàu, thuyền hoạt động hàng hải nội địa; phí bảo đảm hàng
hải hoạt động hàng hải nội địa; lệ phí ra, vào cảng biển hoạt động hàng hải nội địa.
+ Giảm 20% mức thu đối với 07/10 nội dung thu phí trong 02 khoản phí thẩm định cấp
chứng chỉ, giấy phép, giấy chứng nhận trong hoạt động hàng không dân dụng; cấp giấy phép
ra vào khu vực hạn chế tại cảng hàng không, sân bay; phí đăng ký giao dịch bảo đảm đối
với tàu bay.
+ Giảm 50% phí sử dụng kết cấu hạ tầng đường sắt.
+ Giảm 50% phí trình báo đường thủy nội địa và lệ phí ra, vào cảng bến thủy nội địa.
13. Từ 1/10: Bãi bỏ các quy định về tính tỷ lệ nội địa hóa ô tô
Có hiệu lực từ ngày 1/10/2022, Thông tư 11/2022/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và
Công nghệ đã bãi bỏ toàn bộ 3 văn bản quy phạm pháp luật sau:
1- Quyết định số 28/2004/QĐ-BKHCN ngày 01/10/2004 của Bộ trưởng Bộ Khoa học
và Công nghệ về phương pháp xác định tỷ lệ nội địa hóa đối với ô tô.
2- Quyết định số 05/2005/QĐ-BKHCN ngày 11/5/2005 của Bộ trưởng Bộ Khoa học
và Công nghệ về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 28/2004/QĐ-BKHCN ngày
01/10/2004 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ về phương pháp xác định tỷ lệ nội
địa hóa đối với ô tô.
3- Thông tư số 05/2012/TT-BKHCN ngày 12/3/2012 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và
Công nghệ về việc sửa đổi, bổ sung Điều 1 Quyết định số 05/2005/QĐ-BKHCN ngày
11/5/2005 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định
số 28/2004/QĐ-BKHCN ngày 01/10/2004 về phương pháp xác định tỷ lệ nội địa hóa đối
với ô tô.
Tác giả bài viết: huyện đoàn Núi Thành